Thursday, July 22, 2010

Sunday, February 28, 2010

Tiếng kêu tình nghĩa .

Ngày ra đi đã lắm người nhắc nhở
Qua bên nớ phải nói tiếng lương tri
Tám năm rồi tôi chẵng nói được gì
Không biết đâu để gởi niềm tâm sự .

Mở trang net. Nhìn bức hình mộ chí
Lá cờ Vàng ôm giấc ngũ ngàn năm
Chiến sỹ Tự do, Tỗ quốc vinh danh
Cuộc chiến đấu anh là người thắng trước.

Anh an nghĩ giữa hương hồn đất nước
Bao đồng đội bỏ Tổ Quốc ra đi
Hoài bảo lớn đã làm được điêù gì
Chĩ tiếng sáo Trương Chi thỗi thuỡ nọ .

Tôi là người mới rời xa bên nớ
Nhũ với lòng cất tiếng gọi lương tri
Nguyễn Tri Phương là Bệnh viện Quân Y
Của đất Huế trong thời kỳ chinh chiến .

Sau bờ thành là Nghĩa trang của lính
Giặc đã đào, đập nát đá khắc tên
Tấm thẻ bài, nón sắt bể, còn nguyên
Giặc đem đổ trắng phêu miền đất núi .

Ba năm rồi đã một lần tôi nói
Viết, đăng hình, trên báo nhớ Mậu Thân
Lại lần nầy tôi gởi tiếng lương tâm
Đễ tưỡng niệm rừng phơi xương đồng đội .

Thưa các anh những gì tôi đang nói
Người chết rồi họ cũng chẵng cần chi
Nhưng chúng ta theo tiếng gọi lương tri
Anh nghĩ gì trước rừng xương đồng đội ?
Ngôn Nguyễn Đ.72 .



Hạ Thái

 
Tôi viết bài thơ từ phương xa
bài thơ không dán con tem gởi qua bưu điện,
nhưng nó sẽ đi thật nhanh theo ngọn gió bay,
đây lời thiết tha, gói chân tình người còn lại
sau cuộc binh đao, lòng tự hỏi:
không một lần được chết, năm kề nhau,
như đã từng kề vai dưới chiến hào một thời lửa đỏ.
 
Giờ trôi dạt phương này xa xôi quá,
nén nhang tàn theo gió có bay xa
giấc thiên thu anh yên nghỉ xứ Biên Hoà,
từng hoang phế một thời sau khổ nạn,
những nấm mồ hoang tháng năm rêu phong, hoa dại choán…
bao nhiêu lâu hương khói đã lạnh tanh,
bao nhiêu lâu không được viếng thăm
cấm đủ điều…còn nói chi nghĩa tử.
sống hiên ngang, chết , chẳng hề bị quên lảng,
nằm âm thầm nhưng đồng đôi chẳng lảng quên,
từ anh thương binh thân thể không còn nguyên,
và bè bạn hướng về anh bằng tình thương trân quý,
tình chiến hữu, bao năm rồi anh nhỉ
mãi khắc sâu trong tận trái tim.
 
Tôi ở phương xa, còn chi để làm tin,
thì đây những tấm hình với hàng mộ bia trong ngày xuân đến,
tình chiến hữu mặn mà vô bờ bến,
nhìn nghĩa trang mắt ướt đẩm viền quanh,
tôi viết bài thơ một ý chân thành,
không gởi đi, chỉ đọc khi gió thoảng,
và tin chắc là anh  nhận được bên kia.
 
Feb-24-10.
nhân xem hình TPB-VNCH
tảo mộ Nghỉa Trang Biên Hòa trong dịp xuân Canh Dần.

NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG.


Tôi đã thấy những ngôi mộ phủ lá cờ vàng,
Trong nghĩa trang còn tươi màu đất mới,
Quê hương Việt Nam một thời lửa khói,
Người lính quên mình vì lý tưởng tự do.
Các anh hiên ngang chết dưới màu cờ,
Bỏ lại vợ hiền, đàn con thơ dại,
Những vành khăn tang bàng hoàng chít vội,
Nước mắt nào cho đủ tiễn đưa anh?
Có thể anh là người lính độc thân,
Chưa có người yêu, lên đường nhập ngũ,
Ngày mẹ gìa nhận tin anh báo tử,
Tuổi đời gìa thêm vì nỗi đớn đau.
Có thể anh vừa mới có người yêu,
Hẹn cưới nhau khi tàn mùa chinh chiến,
Tiền đồn xa chưa một lần về phép,
Anh đã ra đi mãi mãi không về.
Súng đạn vô tình làm lỡ hẹn thề,
Người yêu anh đã có tình yêu mới,
Khi trên mộ anh chưa tàn hương khói,
Trách làm gì!. Thời con gái qua mau.
Hỡi người tử sĩ dưới nấm mồ sâu,
Tiếc thương anh lá cờ vàng ấp ủ,
Nghĩa trang quân đội những ngày nắng gío,
Vòng hoa tang héo úa chết theo người.
Những ngôi mộ phủ lá cờ vàng. Xa rồi,
Xác thân anh đã tan vào cát bụi,
Nhưng lịch sử vẫn còn ghi nhớ mãi,
Miền Nam Việt Nam cuộc chiến đấu hào hùng.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( Jan.19-2010)